Trong lĩnh vực tài chính,quản lý thanh khoản là một vấn đề cực kỳ cần thiết, đáng chú ý với những ai thực hiện công việc với thị trường chứng khoán, ngân hàng. Thanh khoản hay được gọi là tính lỏng, tính lưu động.
1. Định nghĩa thanh khoản
Tính thanh khoản chỉ cấp độ mà một tài sản bất kì sẽ được mua hoặc bán trên thị trường mà không làm ảnh hưởng đến giá thị trường của tài sản đó. Một tài sản có tính thanh khoản cao nếu như nó sẽ được bán rất nhanh mà giá bán của nó không giảm đáng kể , hay được đặc trưng bởi số lượng mua bán lớn.
Ví dụ, tiền mặt có tính thanh khoản cao, vì nó thường sẽ được “bán” (để đổi lấy hàng hóa) với giá trị gần như không thay đổi như chứng khoán hay các khoản nợ, khoản phải thu…

2. Phân loại tài sản theo tính thanh khoản
Trong kế toán, tài sản lưu động được chia làm năm loại và được bố trí theo từ cao đến thấp như sau: tiền mặt, đầu tư ngắn hạn, khoản phải thu, ứng trước ngắn hạn, và sản phẩm tồn kho.
Tiền mặt có tính thanh khoản cao nhất vì mãi mãi sử dụng được trực tiếp để thanh toán, lưu thông, tích trữ. Còn hàng tồn kho có tính thanh khoản thấp nhất vì phải trải qua giai đoạn phân phối và tiêu thụ chuyển thành khoản phải thu, rồi từ khoản phải thu sau một thời gian mới chuyển thành tiền mặt.

3. Tính thanh khoản của chứng khoán
Chứng khoán có tính thanh khoản là những chứng khoán có sẵn trong thị trường cho việc bán lại đơn giản, giá thành tương đối ổn định theo thời gian và khả năng cao để phục hồi nguồn vốn đã đầu tư ban đầu.
Nhờ có thị trường chứng khoán các nhà đầu tư có thể chuyển đổi chứng khoán họ sở hữu thành tiền mặt khi họ muốn và khả năng đó chính là một trong những đặc tính thu hút của chứng khoán với các nhà đầu tư. Tính lỏng cho thấy sự linh hoạt và an toàn của số tiền đầu tư, thị trường hoạt động càng năng động và có hiệu quả thì tính lỏng của chứng khoán giao dịch càng cao.
Khi lựa chọn chứng khoán để đầu tư, ngân hàng hay các nhà đầu tư nên xem xét đến khả năng bán lại chứng khoán trước khi chúng đáo hạn để tái tạo nguồn số tiền đầu tư ban đầu. Nếu như khả năng tái tạo kém, có nghĩa là khó tìm được người mua hoặc phải bán mất giá, ngân hàng hay nhà đầu tư sẽ gánh chịu những tổn thất tài chính lớn. Việc này gọi là “rủi ro thanh khoản” trong đầu tư chứng khoán.

4. Thanh khoản ngân hàng
Định nghĩa
Tính thanh khoản của ngân hàng thương mại được xem như khả năng tức thời để thuyết phục nhu cầu rút tiền gửi và giải ngân các khoản tín dụng đã cam kết.
Nguy cơ thanh khoản là loại rủi ro khi ngân hàng không có năng lực cung ứng rất đầy đủ lượng tiền mặt cho nhu cầu thanh khoản tức thời; hoặc cung ứng đủ nhưng với khoản chi cao. Nói cách khác, đây chính là loại rủi ro xảy ra trong trường hợp ngân hàng thiếu khả năng chi trả do không chuyển đổi kịp những loại tài sản ra tiền mặt hoặc không thể vay mượn để đáp ứng yêu cầu của các hợp đồng thanh toán.
Cung – cầu và hiện trạng thanh khoản của ngân hàng
Nguồn mang lại thanh khoản cho ngân hàng bao gồm:
- Các khoản tiền gửi sẽ nhận được
- Thu nhập từ việc cung cấp các dịch vụ
- Các khoản tín dụng sẽ thu về
- Bán các tài sản đang kinh doanh và sử dụng
- Vay mượn từ thị trường tiền tệ
Những hoạt động làm ra nhu cầu về thanh khoản bao gồm:
- Khách hàng rút các khoản tiền gửi
- Đề xuất vay vốn của khách hàng
- Thanh toán các khoản phải trả khác
- Chi phí cho quá trình sản xuất và dịch vụ ngân hàng
- Thanh toán cổ tức cho cổ đông

Thiệt hại từ nguy cơ thanh khoản
Đối với các Ngân hàng – xét ở chức năng trung gian tín dụng, khi bị mất tính thanh khoản thì ngân hàng sẽ chịu thiệt hại:
- Buộc phải chạy đua huy động nguồn vốn dẫn đến lãi suất huy động cao
- Lãi suất huy động cao buộc lãi suất cấp tín dụng cao và khó cho vay
- Khi buộc phải trả lãi suất huy động tuy nhiên không thể cho vay rõ ràng Ngân hàng sẽ bị lỗ.
- Không đáp ứng được nhu cầu rút tiền dẫn đến mất sự tin tưởng của Người gửi tiền (kể cả các giao dịch liên ngân hàng)
- Không đáp ứng nhu cầu giải ngân cho các khoản cấp tín dụng.
Đối với nền kinh tế (như liên quan vấn đề lạm phát, tăng trưởng kinh tế, ổn định đời sống xã hội…) sẽ chịu một số vấn đề sau:
Liên quan đến các hoạt động đầu tư. Khi lãi suất tiền gửi tăng, nguồn tiền tập trung gửi vào ngân hàng làm cho nền kinh tế sẽ giảm kênh huy động vốn;
Khi lãi suất cấp tín dụng cao lành liên quan đến hoạt động bán hàng của tổ chức, dẫn đến giá cả tăng (lạm phát tăng), giảm quy mô đầu tư dẫn đến giảm tăng trưởng kinh tế;
Khi giá cả tăng sẽ liên quan đến đời sống của người dân.
Yếu tố thời gian
Xét về thời gian thì nó gồm có cả trong ngắn hạn và lâu dài.
Nhu cầu thanh khoản ngắn hạn mang tính tức thời hoặc hầu như thế. Các khoản tiền gửi giao dịch hoặc tiền gửi có kỳ hạn đến hạn, các công cụ huy động thuộc thị trường tiền tệ… Nằm trong phạm vi nhu cầu thanh khoản ngắn hạn. Để đáp ứng loại này, đòi hỏi ngân hàng phải duy trì ở mức độ khá lớn những loại tài sản có tính thanh khoản cao.
Nhu cầu thanh khoản lâu dài do các nhân tố mang tính chất thời vụ, chu kỳ và xu hướng tạo ra. Ví dụ: nhu cầu rút tiền hay vay mượn của cá nhân thường đáng chú ý tăng cao vào các ngày cận kề với các dịp lễ hội trong năm để trang trải chi tiêu, mua sắm.
Để thuyết phục loại nhu cầu này, đòi hỏi ngân hàng cần phải dự phòng trước khả năng cung cấp vốn từ nhiều nguồn không giống nhau và ở cấp độ cao hơn so với nhu cầu thanh khoản ngắn hạn. Cụ thể như đặt kế hoạch thu hút các khoản tiền gửi mới, thỏa thuận vay lâu dài từ công chúng hoặc từ quỹ dự trữ của các ngân hàng khác…
Bản chất của vấn đề quản lý thanh khoản
Thực chất của vấn đề có thể hiểu thông qua các phát biểu sau:
Rất hiếm khi cung- cầu thanh khoản của một ngân hàng cân bằng với nhau tại một thời điểm nhất định. Các ngân hàng phải thường xuyên đối mặt và giải quyết một trong hai hiện trạng thanh khoản hoặc thặng dư hoặc thâm hụt.
Có một sự đánh đổi giữa khả năng thanh khoản và khả năng sinh lợi. Càng nhiều nguồn vốn hơn được giữ lại để sẵn sàng thuyết phục nhu cầu thanh khoản, năng lực tạo ra lợi nhuận của ngân hàng càng thấp hơn và trái lại.
Xử lý vấn đề này buộc các ngân hàng phải mất chi phí, khoản chi thực tế và tiềm năng, bao gồm khoản chi trả lãi các nguồn vốn vay mượn, chi phí giao dịch để tìm nguồn vốn, khoản chi thời cơ dưới hình thức lợi nhuận tương lai mất đi do phải bán các tài sản sinh lợi.
Các lý do gây ra các sai lầm về thanh khoản của ngân hàng
Ngân hàng vay mượn quá nhiều các khoản tiền gửi, quỹ dự trữ từ các cá nhân và các tổ chức tài chính khác, sau đó chuyển hoá thành những tài sản đầu tư có kỳ hạn. Thế nên, trạng thái mất cân đối về thời hạn giữa nguồn vốn và dùng vốn xuất hiện đối với ngân hàng. Trường hợp hiếm thấy là luồng tiền thu hồi được từ các khoản đầu tư cân bằng chuẩn xác với luồng tiền đang chỉ ra để trang trải cho các nguồn vốn huy động trước đó.
Do sự nhạy cảm đối với sự thay đổi về lãi suất đầu tư, đặc biệt là các khoản tiền gửi. Khi lãi suất đầu tư tăng, một số người gửi tiền rút vốn của họ ra khỏi ngân hàng để đầu tư vào nơi có tỷ suất sinh lợi cao hơn, còn các khách hàng vay tiền có thể trì hoãn yêu cầu vay vốn và tích cực tiếp cận các khoản tín dụng có lãi suất thấp hơn.
Những xu thế về sự thay đổi lãi suất còn ảnh hưởng đến giá trị thị trường các tài sản mà ngân hàng có thể đem bán để tăng thêm nguồn mang lại thanh khoản và trực tiếp ảnh hưởng đến chi phí vay mượn trên thị trường tiền tệ.
Lời kết
Tóm lại, thanh khoản và quản lý nó đòi hỏi nhân sự cấp cao, phân tích phải thực sự cẩn trọng giữa cung cầu. Nếu như không nắm rõ được thực chất vấn đề, mất thanh khoản sẽ gây ra những hậu quả không ngờ.
Xem thêm: Đầu tư gì lãi cao ? Bí kíp đầu tư hốt bạc nhanh chóng cho bạn
Hảo Hảo – Tổng hợp, chỉnh sửa
(Nguồn
tham khảo: forex, fx, kienthucforex)