Nhà đầu tư thông minh là một trong những từ khóa được tìm kiếm nhiều về chủ đề nhà đầu tư thông minh. Trong bài viết này, roi.vn sẽ viết bài viết Tổng những nguyên tắc giúp bạn trở thành nhà đầu tư thông minh.
Nguyên tắc 1: Luôn đầu tư với lợi nhuận không gây hại
Lợi nhuận không gây hại là nguyên tắc mua chứng khoán với giá giảm đáng kể tới mức giá trị thực, nó được hiểu là không những mang lại những cơ hội lãi lớn mà còn tránh tối đa nguy cơ giảm giá trong đầu tư. chẳng hạn như đơn giản, Graham mong muốn mua tài sản có giá trị 1 đô la tuy nhiên trả giá 0.5 đô la. Ông ấy làm điều này rất khả quan.
Đối với Graham những tài sản này có thể đáng giá bởi tiềm năng sinh lời ổn định hoặc đơn giản vì chúng có thành quả thanh khoản. ví dụ như thật không bình thường nếu Graham đầu tư vào cổ phiếu nào mà tài sản có khả năng thanh khoản được trên bảng cân đối kế toán (giá trị thực của các khoản nợ) có giá cao hơn mức chấp nhận của thị trường (theo Graham gọi tên là thu nhập ròng). việc làm này có nghĩa Graham đang mua một thứ mà chẳng có lợi chút nào. đây chính là kế hoạch đầu tư cụ thể trong số nhiều chiến lược của Graham.
khái niệm này vô cùng quan trọng để các người đầu tư lưu ý vì đầu tư giá trị mang lại lợi nhuận thật chất một khi thị trường chẳng thể tránh khỏi khỏi việc tái định giá làm tăng giá cổ phiếu tới mức phù hợp. Nó cũng giúp giữ gìn trong trường hợp thị trường đi xuống nếu như Mọi thứ xảy ra không theo chiến lược và tình hình kinh doanh bấp bênh. Khoản lợi nhuận không gây hại dựa vào việc mua lại công ty được định giá thấp hơn giá trị của nó cực kì nhiều là điểm trung tâm trong những thương vụ thành công của Graham. Khi chọn lựa kỹ lưỡng, Graham nhận thấy hiếm khi hiện diện sự sụt giá thêm nữa ở những cổ phiếu có giá trị thấp này. Khi nhiều học viên của Graham thành công với những chiến lược của riêng mình thì họ vẫn đều cùng chia sẻ quan điểm chủ đạo là “lợi nhuận an toàn’.
Xem thêm Phân tích chi tiết chỉ số ROI, cách tính ROI
Nguyên tắc 2: Đương đầu với sự bất ổn và kiếm lợi từ đấy
Đầu tư chứng khoán có nghĩa là đối phó với sự bất ổn. Thay vì tháo chạy lúc thị trường căng thẳng thì nhà đầu tư sáng tạo lại đón nhận xu hướng suy giảm như thời cơ đầu tư tuyệt vời. Graham minh họa việc làm này bằng hình ảnh tương tự ”Ngài Thị trường”, đối tác kinh doanh tưởng tượng của mọi nhà đầu tư. hằng ngày ‘Ngài thị trường” chào giá các nhà đầu tư hoặc để mua hoặc để bán cổ phần bán hàng. Lúc thì thị trường bị quá khích bởi viễn cảnh bán hàng và đưa ra mức giá quá cao, khi thì thất vọng bởi tương lai và đưa ra mức giá quá thấp.
Bởi thị trường chứng khoán có những cảm giác tương tự nên bài học ở đây là bạn đừng để những quan điểm của “Thị trường” sai khiến những cảm giác của riêng bạn, hoặc tệ hơn là định hướng cho quyết định đầu tư của bạn. Thay thế nên, bạn cần phải định hình cách điệu tiên lượng về giá trị của riêng mình trên cơ sở kiểm chứng sự kiện một cách bảo đảm và hợp lý. hơn nữa bạn chỉ có thể mua khi giá được chào có ý nghĩa và bán khi được giá. Ở một phương diện khác, thị trường đôi lúc chao đảo bất thường, tuy nhiên thay vì sợ hãi trước sự bất ổn bạn hãy sử dụng nó như một cơ hội để mua được giá hời và bán ra khi cổ phần của bạn được giá cao hơn giá trị thực.
đây là hai chiến thuật Graham đưa ra nhằm làm giảm ảnh hưởng tiêu cực từ tính không ổn định của thị trường:
1. Bình ổn thành quả đô la
Bình ổn giá trị đô la được làm bằng cách định kỳ mua cổ phiếu tương đương với một giá trị đô la chắc chắn. Nó giúp duy trì ổn định giá, có nghĩa người đầu tư không phải chú ý đến việc mua nó hoàn toàn ở vị trí dẫn đầu thị trường hay không. Bình ổn giá trị đô la là một phương thức dùng cho nhà đầu tư bị động và nó hạn chế bớt gánh nặng trách nhiệm trong việc chọn mua cổ phiếu với giá bao nhiêu và khi nào cho đúng.
2. Đầu tư cả cổ phiếu và trái phiếu
Graham gợi ý người đầu tư có thể sắp xếp danh mục đầu tư cân đối giữa cổ phiếu và trái phiếu như một cách để bảo toàn vốn khi thị trường suy thoái thì vẫn giữ được thu nhập từ trái phiếu. có thể nhớ triết lý của Graham là trước tiên phải bảo toàn vốn sau đấy mới làm cho nó phát triển. Ông đưa ra mức 25% – 75% đầu tư vào trái phiếu tùy tình hình thay đổi thị trường. Chiến thuật này có điểm lợi là giữ cho nhà đầu tư tránh được cảm xúc không thoải mái gây ra sự cám dỗ tham gia vào các thương vụ bất lợi.
Nguyên tắc 3: Tự biết mình thuộc loại người đầu tư nào
Graham khuyên các người đầu tư phải biết rõ cá tính đầu tư riêng của mình. Để minh họa cho việc làm này, ông phân biệt rõ những nhóm người đầu tư không giống nhau tham gia trên thị trường. nhóm chủ động và group thụ động. Graham nhắc đến khái niệm chủ động cho những nhà đầu tư tấn công và bị động cho tuy nhiên người đầu tư phòng thủ. Bạn chỉ có độc nhất một trong hai lựa chọn: hoặc là hãy bảo đảm nghiêm túc bằng thời gian và sức lực của mình để trở thành người đầu tư có hạng, biết cân bằng giữa lượng và chất của khảo sát thực tế với lãi suất chờ đợi. nếu đây không đơn giản là thế mạnh của bạn hãy bằng lòng chấp nhận mức lời bị động và thấp hơn tuy nhiên với thời gian và công sức rất ít. Graham điều chỉnh quan niệm có tính hàn lâm từ trước tới nay là “rủi ro = lợi nhuận”. Đối với ông thì “công sức = lợi nhuận” mới đúng. Bạn càng bỏ ra nhiều công sức trong việc đầu tư bạn càng kiếm được nhiều lợi nhuận.
nếu bạn đang vội và sự bào chế nghiêm túc một cách chất lượng danh mục đầu tư của bạn thì hãy hãy đầu tư vào một danh mục được xác định tốt. Graham cho rằng người đầu tư thụ động có thể đạt được lợi nhuận trung bình bằng cách giản đơn mua 30 cổ phiếu công nghiệp Dow Jones với lượng trung bình như nhau. Cả Graham và Buffett đều cho rằng có khả năng đạt cho được lợi nhuận trung bình, ví dụ giống như lợi nhuận của S&P 500 – thì đó là một giá trị thực sự hơn là có vẻ như có thể. Theo Graham, sự ảo tưởng của phần lớn người mua cổ phần là ở chỗ nếu như quá dễ để có được khoản lợi nhuận trung bình mà chẳng mất hoặc bỏ ra một tí công sức (thông qua danh mục đầu tư) thì bỏ ra thêm một chút công sức chắc sẽ đem đến lợi nhuận lớn hơn một tí. Thực tế thì đa phần những người cố gắng làm Điều này đến cùng đã làm cho lợi nhuận kém hơn nhiều mức trung bình.
Theo quan điểm tối tân nhà đầu tư phòng thủ thì đầu tư vào danh mục có cả cổ phiếu và trái phiếu. Về bản chất họ sở hữu toàn bộ thị trường, hưởng lợi từ khu vực đang hoạt động tốt nhất mà không cần cố gắng dự báo từ trước. Làm như vậy, một người đầu tư hầu như được cam kết có lợi nhuận của thị trường và hạn chế được điều tồi tệ hơn mức trung bình bằng cách để kết quả tổng thể thị trường tự kiểm soát lợi nhuận lâu dài. Theo Graham, việc bắt nhịp thị trường nói thì dễ hơn làm, và nhiều người đầu tư thấy mình không bắt nhịp được thị trường.
Người đầu cơ và nhà đầu tư
Không phải tất thảy người chơi chứng khoán đều là người đầu tư. Graham tin rằng đánh giá phê phán ai còn lựa chọn đâu là nhà đầu cơ hay người đầu tư. Sự khác nhau đơn giản là: một người đầu tư coi cổ phiếu như một phần công việc kinh doanh và người nắm giữ cổ phiếu là người chủ hoạt động kinh doanh đó, trong khi khái niệm của nhà đầu cơ xem đó như là trò chơi với những tờ giấy giá cao, không quan tâm đến giá trị thực. Đối với nhà đầu cơ, thành quả chỉ được xác định bởi giá do người nào trả giá cho tài sản đó. Graham chỉ ra rằng đầu cơ hay đầu tư cũng đều thông minh – miễn sao bạn bảo đảm hiểu chính mình sẽ làm tốt ở loại nào.
Cách điệu đầu tư của Warren Buffett
Những luận điểm cơ bản của Graham là bất hủ, là hết sức không thể thiếu cho sự thành công dài hạn. Ông mua cổ phiếu với quan niệm mua dưới mức thành quả của doanh nghiệp và biến nó trở thành khoa học trong khi hầu hết toàn bộ các người đầu tư có quan điểm chơi chứng khoán đều dựa trên sự suy đoán. Graham là bậc thầy vĩ đại đầu tiên về đầu tư, chứng tỏ những gì trong dòng máu tri thức của dòng họ tự thức tăng trưởng. nếu như bạn mong muốn cải thiện kỹ năng đầu tư của mình, chẳng hại gì khi học những điều xuất sắc nhất; Graham bắt đầu chứng minh giá trị học thuyết thông qua những môn đồ của ông, ví như Warren Buffett, người đã tao ra một tập quán cho nhịp điệu thị trường.
Trong ấn phẩm cuối cùng về Warren Buffett “Phong cách đầu tư của Warren Buffett” (2004), Robert Hagstrom đã minh họa phương pháp đầu tư của nhà đầu tư giá trị lỗi lạc nhất thế giới. nếu bạn muốn chọn lựa một phong cách đầu tư thành quả classic, hẳn bạn cũng biết Warren Buffett là hình mẫu có vai trò lớn. Ngay từ ngày đầu lập nghiệp, Buffett đã nói “trong tôi có đến 85% là Benjamin Graham”. Graham là cha đẻ của đầu tư giá trị. Ông đã đưa ra khái niệm về giá trị nội tại – là thành quả cơ bản hợp lý của cổ phiếu dựa trên khả năng sinh lời của nó trong tương lai.
Có một vài thứ chẳng có thành quả gì theo diễn giải về đầu tư thành quả của Warren Buffett. Thứ nhất, giống như cực kì nhiều công thức cho sự thành công, chúng thoạt nhìn khá dễ dàng nhưng không phải là giản đơn. Bufett dùng hàng tá “nguyên lý đầu tư” hay sự tính toán then chốt. đặc biệt trong số đó yêu cầu ban quản lý phải trung thực với các cổ đông. Điều đòi hỏi này dễ dàng và dễ hiểu tuy nhiên chẳng dễ giải đáp chút nào. có nhiều chẳng hạn như thú vị về mâu thuẫn này: khái niệm thì khó khăn tuy nhiên cũng dễ dàng. Ở phương diện này, thành quả kinh tế nâng cao (EVA) là một chẳng hạn như phù hợp. Sự tính toán phong phú của EVA không dễ gì tiếp thu và sự trình bày về chiều hướng của EVA thì phức tạp. tuy nhiên một khi bạn coi EVA chỉ là một danh mục dài các biến số và khi được cung cấp bằng phương pháp thì nó trở nên giản đơn để tính toán EVA cho bất kỳ doanh nghiệp nào. vì thế cho có thể những nguyên lý của Buffett nghe có vẻ lời nói sáo bởi chúng dễ hiểu tuy nhiên lại có khả năng cực kì khó triển khai và trái lại.
thứ hai, cuốn “Cách thức của Warren Buffett” có khả năng được coi là cách điệu truyền thống căn bản trong đầu tư mà rất dễ thích nghi. Thậm chí tác giả của cuốn sách best seller cũng chủ đạo là môn đồ của phái thực hành, hay người theo triết lý Buffett đôi khi thay đổi bí quyết tiếp cận riêng trong suốt quá trình đầu tư ngay cả cổ phiếu công nghệ cao, lĩnh vực dễ thấy Buffett tiếp tục tránh xa. một trong những phương diện hấp dẫn của trường phái Buffett là tính linh động bên cạnh những dấu ấn phi thường của nó. nếu như là một tôn giáo thì nó không mang tính giáo vấn đề mà thay vào đó là sự tự phản ánh và thích ứng qua thời gian. đây chính là tín hiệu tốt. Nhà bán hàng trong ngày có khả năng yêu cầu những nguyên tắc cứng rắn và bám vào phương pháp (có nghĩa là một phương tiện làm chủ tình cảm), nhưng tôi nghĩ chúng ta có khả năng bảo đảm nói rằng những nhà đầu tư thành công không gì hơn là cần phải có ý thức thích ứng với những tình trạng tinh thần tương ứng với thời gian khác nhau.
Theo Hagstrom, Buffett có mười hai nguyên lý đầu tư. Chúng được phân thành các group gồm kinh doanh, quản lý, thước đo tài chính và giá trị.
Bán hàng
Buffett tự giới hạn bản thân một cách cứng rắn không tham gia vào “cuộc đua tranh giành” của thương vụ mà ông có thể phân tích và hiểu rõ. Như Hagstrom viết: thành công trong đầu tư không phải nỗi lo ở chỗ bạn biết được bao nhiêu mà là bạn thực tế đến đâu trong việc chọn lựa được cái mà bạn chẳng rõ. Buffett coi sự hiểu biết sâu sắc về vận hành kinh doanh này là điều kiện tiên quyết đối với dự báo khả thi của hoạt động kinh doanh trong tương lai; nghĩa là nếu bạn không hiểu về kinh doanh thì làm sao bạn có thể tiên đoán được hoạt động? Mỗi nguyên lý bán hàng của Buffett đều hỗ trợ cho mục tiêu xây dựng có thể đề án lớn: trước tiên hãy nhớ rằng bạn đang phân tích việc bán hàng không phải là thị trường hay nền kinh tế hay sự ủy mị của nhà đầu tư. thứ hai là kiên định trong việc tìm kiếm lịch sử công việc bởi nó sẽ hỗ trợ cải thiện năng lực của bạn. Và thứ ba là phải biết chắc thương vụ có triển vọng về dài hạn hay không.
Quản lý
Ba nguyên tắc quản lý của Buffett xoay quanh đến việc đánh giá chất lượng quản lý. Có lẽ đây chính là tác nghiệp đo đạt khó nhất của nhà đầu tư. Buffett đòi hỏi “quản lý có hợp lý không?” cụ thể quản lý sẽ là khôn ngoan khi nó thỏa mãn yêu cầu tái đầu tư lợi nhuận hoặc chia lợi tức của cổ đông. đây là câu hỏi sâu sắc. hầu hết các khảo sát cho dù theo group hay bình quân đều cho chúng ta thấy có tính lịch sử rằng quản lý có xu hướng trở nên tham lam và giữ lại lợi nhuận càng nhiều càng tốt vì theo lẽ tự nhiên họ có xu thế tạo ra đế chế và tìm kiếm một vị thế hơn là dùng dòng vốn theo cách tối đa hóa thành quả của cổ đông. Một nguyên tắc khác yêu cầu quản lý phải trung thực. Họ có chấp thuận sai lầm không?
Và nguyên tắc quản lý cuối cùng đòi hỏi rằng: quản lý có chịu đựng được những mệnh lệnh hành chủ đạo không? Nguyên lý này là đặc biệt trong phạm vị rộng, nó gồm có cả việc tìm kiếm ban quản lý say mê hành động và chống lại việc mù quáng sao chép chiến thuật và kế hoạch của đối thủ cạnh tranh. nếu như đọc cuốn sách, nguyên tắc đặc thù này có giá trị một bí quyết khác thường. Nó yêu cầu sự suy ngẫm và là một trong các điều tối quan trọng (ví dụ: việc trước tiên tham gia thị trường, một doanh nghiệp phải xác định đâu là ranh giới giữa việc sao chép một cách mù quáng chiến thuật của đối thủ chung ngành với việc đưa rõ ra một chiến thuật vượt trội?)
Thước đo tài chính
Nguyên tắc tài chủ đạo không mấy khó khăn. Buffett nhìn vào lợi nhuận ròng trên vốn chủ sở hữu (ROE). hầu như các sinh viên tài chính đều hiểu rằng ROE có thể bị nhiễu bởi tỷ số nợ (là tỷ số giữa tổng nợ với vốn chủ sở hữu), cho nên về lý thuyết chỉ số này còn thấp hơn chỉ số tỷ số lợi nhuận trên số tiền đầu tư (ROC) theo một số khía cạnh. ROC theo tôi nghĩa là tương tự như lợi nhuận trên tổng tài sản (ROA) hay lợi nhuận trên vốn vay (ROCE) mà ở đó tử số là lợi nhuận xuất hiện lần đầu từ tất cả các nguồn vốn được bổ sung và mẫu số gồm có cả vốn chủ sở hữu và vốn vay. Dĩ nhiên, Buffett hiểu rằng thay vì đào thải riêng các công ty mang nợ thì tốt hơn là xem xét đến một mức nợ thấp hợp lý. Ông cũng tìm kiếm mức lợi nhuận cao ở mức hợp lý tự nhiên.
Hai nguyên tắc tài chính cuối cùng đều có chung cơ sở lý thuyết từ khái niệm giá trị kinh tế nâng cao. trước tiên Buffett xem xét đến cái mà ông gọi là “thu nhập của chủ sở hữu”. Về thực chất đây là thu nhập sẵn có của các cổ đông, về tính kỹ thuật thì nó không liên quan tới thu nhập từ cổ phần. Theo Buffett, nó được khái niệm là lãi ròng (Net income) kết hợp thêm phần thành quả khấu hao và phần nợ trả dần (nghĩa là phần thành quả không gồm có khoản phí liên quan đến tiền) (D&A) trừ đi tiền của số tiền đầu tư dài hạn (CAPX) trừ đi tiền bạc vốn phát sinh cho mong muốn hoạt động (charge in W/C). Tóm lại: lãi ròng + D&A – CAPX – (charge in W/C). Người theo chủ nghĩa thuần túy sẽ phản đối những thay đổi chi tiết tuy nhiên biểu thức này gần với định nghĩa EVA trước khi bạn trừ đi phần chi trả cổ tức cho cổ đông. Về cơ bản, với định nghĩa “thu nhập chủ sở hữu”, Buffett chỉ ra năng lực công ty trong việc điều hành đồng vốn của cổ đông cũng chính là giới chủ. Nguyên tắc cuối cùng được gọi là “Học thuyết một đồng đô la” (one-dollar premise). thành quả thị trường trên một đô la được chuyển nhượng vào mỗi đô la thu nhập được giữ lại là gì? Thước đo này rất đồng nghĩa với định nghĩa thành quả thị trường tăng cường (MVA), tỷ số giá trị thị trường trên vốn đầu tư.
Thành quả
nhóm nguyên tắc cuối cùng là thành quả, theo đấy Buffett cài đặt cách làm dựa trên sự dự báo thành quả thực của một công ty. Một cộng sự kết luận các bước có sự liên quan mật thiết thiết này như “toán học liên kết”. Buffett dự đoán thu nhập chủ có được trong tương lai sau đó chiết khấu trở lại tới giá trị hiện tại. nên nhớ rằng nếu bạn ứng dụng nguyên tắc khác, sự dự đoán thu nhập tương lai – theo định nghĩa – được làm dễ hơn thường thường. chẳng hạn như như những khoản thu nhập không đổi định kỳ thì dễ dự đoán hơn.
Buffett cũng đưa rõ ra định nghĩa “rào chắn – Moat”, cái được nổi lên như một hệ quả trở thành tập quán thành công trên Morningstar của những công ty được thích nhờ có “rào chắn kinh tế” (economic moat). Rào chắn là “cái đem đến cho doanh nghiệp một lợi thế rõ nét hơn đối thủ khác và bảo vệ nó trước những sự tấn công bất ngờ từ sự cạnh tranh”. một tí ít tính lý thuyết dị giáo có lẽ chỉ xuất hiện với nhà hiền triết từ Omaha, ông khấu trừ từ thu nhập được dự tính tới mức không hề có tỷ lệ rủi ro. Ông hành động bằng việc kiên định với nguyên tắc “lợi nhuận không gây hại – margin of safety” trong khi áp dụng thận trọng những nguyên tắc khác với hàm ý giảm tới mức ít nhất nguy cơ chứ không hề có nghĩa thật sự bỏ đi được rủi ro. (Hãy tham khảo doanh nghiệp nào mà Warren Buffett đang mua và bán? Hãy tham gia vào Coattail Investor, một sản phẩm đăng ký theo chân một số nhà đầu tư tối ưu thế giới)
Nguyên lý của Buffett tạo thành nền tảng trong đầu tư thành quả, nó có cơ chế mở cho sự thích ứng và diễn giải lại về sau. Nó là một câu hỏi mở tới mức những nguyên tắc này đòi hỏi sự cung cấp bằng tri thức trong tương lai, nơi những quá trình lịch sử diễn ra tương ứng khó tìm thấy hơn, yếu tố vô hình đóng một nhiệm vụ đặc biệt hơn trong thành quả quyền kinh doanh và sự không chắc chắn về ranh giới giữa các ngành công nghiệp giúp cho sự phân tích bán hàng càng phức tạp hơn.
Nguồn https://www.pace.edu.vn/